Quy định về nguyên tắc bổi thường thiệt hại

Bồi thường thiệt hại là trách nhiệm dân sự do hành vi gây ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể. Bên có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được pháp luật quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Dịch vụ 3S sẽ hướng dẫn bạn về nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là một chế định quan trọng được quy định trong Bộ luật Dân sự.

Nó nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại, cùng với đó nó cũng đảm bảo mức bồi thường thiệt hại không quá lớn dẫn đến việc người gây thiệt hại không thể bồi thường thiệt hại.

Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định những nguyên tắc bồi thường thiệt hại sau:

Thứ nhất, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.

Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm,… phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của Bộ luật Dân sự 2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó, thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.

Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, việc xác định đâu là thiệt hại thực tế còn có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến không chỉ khó khăn trong việc xác định trách nhiệm hình sự mà còn cả trong trách nhiệm dân sự của người gây ra thiệt hại.

Thứ hai, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện song song với nhau, sau đây:

  • Do không có lỗi hoặc có lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
  • Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.

Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại.

Thứ tư, khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

Với lý lẽ công bằng, gây thiệt hại đến đâu bồi thường đến đó, nhưng trong nhiều trường hợp bên bị thiệt hại lại là bên có phần lỗi dẫn đến thiệt hại.

Luật quy định bên bị thiệt hại sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

Vậy, thiệt hại không được bồi thường ở đây được hiểu như thế nào cho đúng?

Với trường hợp mỗi bên đều có lỗi cố ý, đều bị thiệt hại về tài sản, sức khỏe,… thì không có gì đáng nói.

Nhưng với trường hợp, cả hai bên đều có lỗi cố ý, nhưng thiệt hại mà bên bị thiệt hại gây ra cho bên gây thiệt hại không đáng kể, còn thiệt hại mà bên gây ra thiệt hại cho bên bị thiệt hại tính toán được bằng con số cụ thể, thì vấn đề đặt ra, tòa án có xem xét mức độ lỗi của bên bị thiệt hại khi ấn định mức bồi thường thiệt hại đối với bên gây ra thiệt hại không?

Xoay quanh vướng mắc này, thực tế thường xảy ra hai trường hợp sau:

  • Một là, thiệt hại hoàn toàn do người bị thiệt hại gây ra, như vậy, người bị thiệt hại sẽ không nhận được bồi thường, tức là người gây ra thiệt hại không có lỗi thì họ không phải bồi thường thiệt hại.
  • Hai là, thiệt hại một phần do người bị thiệt hại gây ra, còn một phần do lỗi của người gây thiệt hại, như vậy, người bị thiệt hại vẫn được bồi thường phần thiệt hại không phải do lỗi của mình.

Trong trường hợp này, tòa án cần xác định rõ mức độ lỗi của mỗi bên để ấn định trách nhiệm bồi thường cho tương xứng.

Vì người bị thiệt hại cũng có lỗi, và chính yếu tố lỗi của họ là chất xúc tác, là nguyên nhân, dẫn đến phản ứng tiêu cực của bên gây ra thiệt hại và hậu quả thực tế xảy ra, nhưng họ lại là người bị thiệt hại, do vậy, họ phải tự “bồi thường” cho mình tương ứng với mức độ lỗi đó.

Ý nghĩa việc quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại

Việc quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại là vô cùng cần thiết.

Bồi thường toàn bộ thiệt hại là nguyên tắc công bằng, hợp lí phù hợp với mục đích và chức năng phục hồi của chế định pháp luật này.

Bồi thường kịp thời cho người bị thiệt hại để người bị thiệt hại có thể khắc phục những hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra.

Điều này đặc biệt quan trọng khi thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của cá nhân bị xâm hại để nạn nhân có thể kịp thời cứu chữa, hạn chế thiệt hại bởi các chi phí cho việc cứu chữa bệnh nhân trong trường hợp vượt quá khả năng của nạn nhân.

Đối với trường hợp giảm mức bồi thường là hoàn toàn hợp lý với những người không có lỗi hoặc lỗi vô ý bởi hậu quả không phải do ý chí chủ quan của người phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Hơn nữa nếu người chịu trách nhiệm bồi thường có khả năng kinh tế không đủ để chi trả bồi thường cũng sẽ được giảm để phù hợp với hoàn cảnh thực tế cũng như để họ vẫn có thể trang trải cuộc sống.

Trường hợp kinh tế lạm phát, sức khỏe của người bị thiệt hại có thể thay đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau thì việc quy định mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường là vô cùng cần thiết.

Trên đây là bài tư vấn của Dịch vụ 3S về Quy định về nguyên tắc bổi thường thiệt hại. Mọi ý kiến thắc mắc, Quý khách hàng vui lòng liên hệ qua Hotline 0948 689 869 để gặp luật sư tư vấn.